0

Các rối loạn vận động thường gặp | Safe and Sound

Rối loạn vận động là hiện tượng suy giảm hoặc mất hoàn toàn khả năng kiểm soát các cơ trên cơ thể như lưỡi, môi, mặt, thân, các chi,.. làm cho người bệnh gặp khó khăn trong sinh hoạt. 

Nguyễn Thị Hồng Hạnh | Bác sĩ - Viện tâm lý và sức khỏe tinh thần SnS

Trung tâm Nghiên cứu Sức khỏe Cộng đồng và Phát triển

1. Thất điều (Ataxia)

Theo các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần, thất điều là triệu chứng do tổn thương não, thân não hoặc tuỷ sống. Triệu chứng bao gồm: Động tác vụng về, không chính xác, mất thăng bằng, dáng đi không vững, run hoặc kém phối hợp điều hoà động tác trong khi thực hiện các vận động chủ ý. Các vận động không còn trơn tru và có vẻ rời rạc hoặc giật giật. Bệnh nhân thường bị té do đi không vững. Thất điều cũng có thể ảnh hưởng đến lời nói hoặc vận động mắt. 

2. Loạn trương lực cơ (Dystonia)

Loạn trương lực cơ được các bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý giải thích là một rối loạn thần kinh đặc trưng bởi các cử động co thắt cơ bắp, các chuyển động lặp đi lặp lại làm cho cơ thể luôn ở tư thế và vị trí bất thường. Loạn trương lực cơ được gây ra bởi sự tổn thương các hạch nền. Đây là hậu quả của bất thường chức năng hạch nền, là phần nằm sâu trong não giúp kiểm soát sự phối hợp vận động. 

Theo các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần, những vùng não này giúp kiểm soát độ nhanh và độ linh hoạt của vận động và ngăn chặn những vận động không mong muốn. Biểu hiện loạn trương lực cơ có thể bị rối loạn vận động xoắn vặn không kiểm soát được, những vận động tái diễn hoặc có những tư thế và vị trí bất thường.

Ảnh 1: Loạn trương lực cơ do sự tổn thương các hạch nền 

Những triệu chứng này có thể xảy ra ở bất cứ phần nào của cơ thể, bao gồm tay, chân, thân mình, mi mắt và dây thanh âm. Loạn trương lực cơ toàn thể ảnh hưởng toàn bộ cơ thể. Các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần cho biết, loạn trương lực cơ khu trú chỉ ảnh hưởng một vị trí cơ thể, vị trí phổ biến nhất là cổ (chứng vẹo cổ co thắt), mi mắt (chứng co thắt mi mắt), phần dưới của mặt (hội chứng Meige), hoặc bàn tay (chứng vọp bẻ do viết chữ nhiều, hoặc loạn trương lực cơ ở chi). Tuỳ theo phần nào của cơ thể bị ảnh hưởng mà bệnh gây phế tật nhiều hay ít.

Nguyên nhân gây loạn trương lực cơ có thể là do đột biến gen, rối loạn hoặc do tác dụng phụ của một loại thuốc nào đó. Một số loại thuốc có thể gây loạn trương lực cơ bao gồm các thuốc an thần.

3. Bệnh Parkinson

Bệnh Parkinson là một bệnh tiến triển do thoái hoá tế bào thần kinh trong phần não, kiểm soát vận động. Những tế bào này bị chết hoặc suy yếu, làm giảm khả năng sản xuất ra một hoá chất quan trọng gọi là dopamine.

Các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần cho biết, bệnh Parkinson có nhiều triệu chứng phổ biến bao gồm run, đơ cứng chi hoặc cơ; mất dần các cử động tự phát nên thường dẫn đến giảm các kỹ năng trí tuệ hoặc thời gian phản ứng, thay đổi giọng nói hoặc giảm biểu cảm nét mặt; mất dần những cử động tự động thường dẫn đến giảm chớp mắt, giảm số lần nuốt và chảy dãi; tư thế đi cong cúi về trước, khuỷu tay, hông, và gối đều cong; bước đi không vững, không thăng bằng; sa sút trí tuệ hoặc trầm cảm. Theo thống kê của các bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý Hiệp hội bệnh Parkinson ước tính mỗi năm có khoảng 60.000 trường hợp bệnh Parkinson được chẩn đoán thêm mới. Trong khi nguy cơ bị Parkinson tăng theo tuổi, có 4% số bệnh nhân được chẩn đoán trước 50 tuổi.

4. Hội chứng Tourette

Theo bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý, hội chứng Tourette là một rối loạn thần kinh có biểu hiện đặc trưng là những cử động lặp đi lặp lại, hay còn được biết đến dưới tên “chứng giật cơ”. Rối loạn vận động này thường thấy ở trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 15. Đây là một rối loạn vận động phổ biến ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơn phụ nữ.

Triệu chứng rối loạn vận động đầu tiên thường là tật giật cơ, chẳng hạn như giật đầu, nháy mắt hoặc nhăn nhó ở mặt liên tục. Sau đó, các triệu chứng có thể tiến triển và các cử động giật ngày càng phức tạp hơn. Những cử động này có thể là co giật dây thanh quản gây phát ra những âm thanh không mong muốn như bao gồm tiếng lẩm bẩm, hắng giọng, la hét hoặc quát tháo.

Ảnh 2: Biểu hiện rối loạn vận động đầu tiên của hội chứng Tourette thường là tật giật cơ

Bên cạnh đó hội chứng Tourette cũng có biểu hiện bằng nói tục hoặc các động tác khiêu dâm, đấm, đá hoặc những cơn thở gấp xuất hiện bất chợt. Những cử động của hội chứng Tourette xảy ra nhanh, thường xuyên, lặp đi lặp lại.

Các chuyên gia tâm lý cho biết, những cơn giật cơ ở dây thanh quản rất khó kiểm soát và gây ra nhiều bất tiện cho bệnh nhân, đặc biệt là ở nơi công cộng. Vì hầu hết mọi người sẽ coi những tiếng này là tiếng tằng hắng để thu hút sự chú ý. Giật cơ ở dây thanh quản thường tạo ra những âm thanh như tiếng lầm bầm, tiếng tằng hắng, la hét hoặc thậm chí trong một số trường hợp có thể là tiếng sủa.

5. Run vô căn

Run vô căn là cử động run hoặc lắc tự phát, thường xảy ra ở một hoặc hai bàn tay hay cánh tay, run thường nặng thêm khi cố gắng thực hiện các động tác vận động cơ bản. Đây không phải là một căn bệnh đe dọa tính mạng, nhưng có thể tác động tiêu cực đến cuộc sống của bạn.

Theo các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần, run vô căn là những hành động rung lắc một phần cơ thể theo nhịp mà bạn không thể kiểm soát được. Phần cơ thể thường bị ảnh hưởng nhất bao gồm bàn tay, cánh tay, hoặc đầu. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do sự suy yếu trong quá trình truyền tin giữa các khu vực của não và thường được chẩn đoán nhầm là bệnh Parkinson.

Đây có lẽ là bệnh về thần kinh thường gặp nhất. Đối với hầu hết các trường hợp, đây là một rối loạn tiến triển chậm. Tuy nhiên có một số người lại thấy bệnh chỉ ở mức độ nhẹ và không hề tiến triển.

Không giống như run khi nghỉ trong bệnh Parkinson, các chuyên gia tâm lý cho biết, cơn run vô căn thường không xuất hiện khi nghỉ ngơi. Các cơn run thường biến mất hoàn toàn trong khi ngủ. Run vô căn có thể gây khó chịu và suy nhược cơ thể. Một số người có thể gặp các triệu chứng khác kết hợp với run, chẳng hạn như không thể giữ thăng bằng khi đi đứng. Trong một số trường hợp, vật lý trị liệu và thay đổi lối sống có thể làm giảm triệu chứng. Nếu bệnh ảnh hưởng đến công việc và hoạt động hàng ngày hoặc tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của bạn, khi đó cần xem xét tới điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật.

6. Bệnh Huntington

Bệnh Huntington được các bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý giải thích là một bệnh lý thoái hoá tiến triển và gây tử vong, bệnh gây ra do chết các tế bào thần kinh trong não. Bệnh hay xảy ra nhất ở lứa tuổi 35-50 tuổi với diễn tiến nặng dần không hồi phục trong khoảng 10-25 năm.

Theo các chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm thần, triệu chứng bao gồm giật cơ, những cử động không kiểm soát được ở chân tay, thân mình và mặt; sa sút trí tuệ tiến triển; phát sinh những vấn đề tâm thần. Bệnh do di truyền, đứa trẻ có một cha hoặc mẹ bị bệnh sẽ có xác suất 50% bị bệnh Huntington.

Hiện không có phương pháp điều trị bệnh Huntington, vì thế điều trị nhằm vào giảm triệu chứng, phòng ngừa biến chứng và giúp bệnh nhân cũng như các thành viên trong gia đình giải quyết các khó khăn hàng ngày. Bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý có thể dùng thuốc chống loạn thần, chống trầm cảm, chống lo âu, thuốc ổn định khí sắc hoặc tiêm botox. Những thuốc này được dùng ở liều thấp nhất có hiệu quả vì tất cả các thuốc này có thể có tác dụng phụ.

Bệnh Huntington thường diễn tiến đến giai đoạn cuối trong 10-30 năm. Các chuyên gia tâm lý cũng ghi nhận nếu triệu chứng xảy ra sớm hơn thì bệnh thường tiến triển nhanh hơn.

: Các rối loạn vận động thường gặp | Safe and Sound

Đăng ký nhận tư vấn ngay

Nhận tư vấn về sức khoẻ tinh thần từ Safe and Sound